Lịch sử địa phương
Bài 5:
SÀI GÒN TRONG GIAI ĐOẠN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1859 – 1954)
I.Quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn:
Tháng 8 – 1858, lấy cớ triều Nguyễn “cấm và sát đạo", thực dân Pháp với sự hỗ trợ của quân Tây Ban Nha đã ngang nhiên kéo đến xâm lược nước ta, nơi chúng đánh chiếm đầu tiên là cửa biển Đà Nẳng.
- Quân Pháp chiếm thành Gia Định :

Tranh vẽ minh họa quân Pháp tấn công thành Gia Định
- Do không thể cầm cự lâu ở mặt trận Đà Nẵng, Pháp quyết định chuyển hướng đánh Sài Gòn
- Từ ngày 9/ 2 đến ngày 15/2/1859, chúng lần lượt hạ các đồn phòng vệ của triều đình dọc hai bên bờ sông, thẳng tiến về Sài Gòn. Chỉ tròng vòng 1 tuần, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã chiếm đựơc toàn bộ thành Gia Định.
- Pháp không dám cho quân đồn trú trong thành mà chỉ để lại một đội quân nhỏ do đại tá Đa –ri- e chỉ huy. Đội quân này cố thủ, cầm cự với quân triều đình do Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển chỉ huy.
Đại đồn thất thủ:
- Sau khi thành Gia Định thất thủ, triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Cáp vào chỉ huy cuộc kháng chiến trong Nam. Nguyễn Tri Phương chủ trương chiến lược phòng thủ nên tập trung quân xây dựng đại đồn Chí Hoà nhằm bao vây địch
- Ngày 24 -2 -1861, quân Pháp tập trung lực lượng đánh bại đồn Chí Hoà. Chưa đầy 2 ngày, đế chiều ngày 25/2/1861 thì thất thủ.
II. Các Phong Trào Chống Pháp:
- Hoạt động của 5000 nghĩa binh trên tuyến đường sông Sài Gòn do Trần Thiện Chánh và Lê Huy chỉ huy
- Lực lượng nghĩabinh do Đề đốc Nguyễn Văn Tiến chỉ huy hoạt động quanh vùng Bình Chánh, Cần giuộc.
- Đội nghĩa binh Dương Bình Tâm chỉ huy đã phục kích giết chế viên đại uý Pháp Bác bê.
- Nổi bật trong số những người yêu nước, không chịu khuất phục trước” súng nổ tàu đồng” là Trương Định (1820 -1864). Ngoài ra còn có các toán nghĩa quân khác như Phan Văn Đát, Lê Cao Dõng, Nguyễn Trung Trực, Võ Văn Dương.
- Bên canh đó là một số chí sĩ yêu nước đã đánh giặc theo cách riêng của mình : Nguyễn Đình Chiểu…
III. Thành phố Sài Gòn Dưới Thời Pháp Thụôc:
1.Sài Gòn trở thành trung tâm hành chính theo kiểu phương Tây:
- Thụôc địa Nam Kì đựơc chia thành 20 tỉnh với 2 thành phố: Sài Gòn (thành phố cấp 1) và chợ Lớn (thành phố cấp II). Đứng đầu là viên Công sứ (Người Pháp), dưới quyền là các cơ quan Sở Tham biện và hội đồng hàng tỉnh.
- Nam Kì trở thành một thụôc địa (đứng đầu là một quan Toàn quyền trực thụôc Bộ Hải quân và thụôc địa trong bộ máy chính trị Pháp .

2. Sài Gòn trở thành trung tâm kinh tế quan trọng nhất ở Nam Kì:
- Để thực hiện ý đồ khai thác thụôc địa phục vụ cho nền kinh tế chính quốc, trong khoảng thời gian từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp cho xây dựng nhiều công xưởng, nhà máy, xí nghiệp, trường nghề, cầu đường… ( Ba Son, Tuyến xe lửa Sài Gòn – Mĩ Tho, Bưu điên Thành Phố, Tàu điện Dài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn, Trường Cơ khí Á châu,…..
IV.Phong trào chống Pháp của những người Tân Học:
- Đầu thế kỷ XX, tư tưởng vô sản đựơc truyền bá vào nước ta.
- Ban đầu tư tưởng vô sản này chỉ một số ít những người tân thời tiếp thu vì các sách báo tài liệu này chủ yếu bằng tiếng Pháp. Phương tiện truyền bá tư tưởng rất hiệu quả lúc bấy giờ là sách báo và diễn thuyết. Báo Tiếng Chuông Rè do Nguyễn An Ninh là chủ bút là tờ báo đầu tiên dịch nguyên vẹn bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản ra Tiếng Việt.
- Ở Sài Gòn một sự kiện sau này có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng, đó là ngày 5/6/1911, thầy giáo Nguyễn Tất Thành lên tàu La – tu – sơ Trê –vin với ý thức là tiếp cận với tư tưởng vô sản và mở ra con đường cứu nước cho dân tộc ta.
- Tổ chức chính trị màu sắc của tư tưởng vô sản đầu tiên tại Sài Gòn là Cônghội do Tôn Đức Thắng sáng lập.
- Từ cuối năm 1926 đầu năm 1927 , Hội Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng đồng chí hội do Nguyễn Ai Quốc sáng lập.
V. Nam Kì Khởi Nghĩa:
- Tháng 7/1940, Xứ Uỷ Nam Kì đã họp hội nghị mở rộng ở Mĩ Tho bàn kế hoạch khởi nghĩa. Hội nghị cử đồng chí Phan Đăng Lưu ra Bắc liên hệ với Trung ương để xin ra lệnh khởi nghĩa.
- Từ ngày 6 đến ngày 9 /11/1940, Hội nghị lần thứ VII của Trung ƯơngĐảng Cộng Sản Đông Dương họp tại Đ2inh Bảng, tỉnh Bắc Ninh và Quyết định hoãn cuộc khởu nghãi Nam Kì nhưng lệnh khởi nghĩa đã ban bố tới , không hoãn lại được nữa.
- Mặc dù vậy, Pháp đã biết rõ ngày giờ và kế hoạch phát động cuộc khởi nghĩa nên đã tăng cường bảo vệ . Cụôc khởi nghĩa Nam Kì vẫn nổ. Ngày 23/11/1940 dưới lá cờ đỏ sao vàng, nhân dân đã nổi dậy.
- Tại quận Hóc Môn, nghĩa quân đã chiếm được trụ sở xã, dinh quận và đồn Hóc Môn.
- Thực dân Pháp điên cuồng đàn áp cụôc khởi nghĩa. Chúng đem các vị lãnh tụ Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai xử tử ở Hóc Môn.